
Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, những làng nghề còn là nơi lưu giữ những tinh hoa văn hóa, những kỹ năng và bí quyết được truyền từ đời này sang đời khác qua hàng trăm năm lịch sử. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện đại hóa nhanh chóng, các làng nghề truyền thống đang phải đối mặt với nhiều thách thức để có thể tồn tại và phát triển.
Làng nghề truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam
Theo Nghị định 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, để được công nhận là làng nghề, một địa phương cần đáp ứng đồng thời 3 tiêu chí: Có ít nhất 20% số hộ trong làng tham gia hoạt động nghề; hoạt động sản xuất, kinh doanh phải diễn ra liên tục và ổn định trong tối thiểu 2 năm; tuân thủ các quy định hiện hành về bảo vệ môi trường làng nghề. Đối với làng nghề truyền thống, ngoài 3 tiêu chí trên, còn phải có tối thiểu một nghề truyền thống thỏa mãn cả 3 yêu cầu sau: Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ hơn 50 năm và đang tiếp tục phát triển; nghề tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc và nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cả nước hiện có trên 5.400 làng nghề, trong đó miền Bắc chiếm khoảng 1.500 làng nghề, tập trung chủ yếu ở vùng châu thổ sông Hồng như: Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình... Nhiều làng nghề đã tồn tại và phát triển qua hàng trăm năm, trở thành biểu tượng văn hóa của địa phương và cả nước như: Làng gốm Bát Tràng, làng tranh Đông Hồ, làng lụa Vạn Phúc, làng đá mỹ nghệ Non Nước, làng thúng chai Phú Yên, làng cói Kim Sơn, làng gốm Chu Đậu, làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ...
Trong ký ức của nhiều người, làng nghề truyền thống là hình ảnh những người thợ chân chất với làn da sạm nắng, ngồi giữa những khung dệt bằng nứa và giấy màu sặc sỡ; hay những nghệ nhân khéo léo biến những khối đất sét thành những chiếc bát, lọ hoa tinh xảo. Đó là không gian văn hóa đặc trưng với cây đa, giếng nước, sân đình, những câu hát dân gian, cánh cò trắng, lũy tre xanh... Mỗi làng nghề là một môi trường văn hóa, kinh tế - xã hội và kỹ thuật truyền thống lâu đời, bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật, kỹ thuật sản xuất đúc kết qua nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa.
Như một mạch nguồn bất tận, các làng nghề truyền thống vẫn âm thầm nuôi dưỡng và gìn giữ linh hồn văn hóa Việt. Mỗi nhịp đập của búa rèn, mỗi đường cọ của nghệ nhân gốm, hay tiếng thoi đưa trên khung dệt, đều là những nốt nhạc trong bản hòa tấu của phong tục, lễ hội và nghi lễ cổ truyền. Qua bàn tay khéo léo và tâm hồn tinh tế của người thợ, những giá trị văn hóa tinh túy nhất của dân tộc được truyền lửa, thổi hồn vào từng sản phẩm, vượt qua thời gian để lay động trái tim thế hệ mai sau.
Festival nghề truyền thống Huế 2023. Ảnh: Phúc Đạt
Thách thức của làng nghề truyền thống
Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội hiện đại đã tác động không nhỏ đến sự tồn tại của những giá trị truyền thống. Nhiều làng nghề tuy vẫn giữ được nét riêng nhưng không còn phát triển mạnh mẽ và nhộn nhịp như trước. Ngoài một số làng nghề nổi tiếng và mang lại hiệu quả kinh tế cao như Bát Tràng, Vạn Phúc, hầu hết các làng nghề khác đã và đang dần bị mai một. Tựa như ánh hoàng hôn cuối ngày, thời hoàng kim của các làng nghề truyền thống đã dần phai nhạt. Trong dòng chảy vô tình của thời gian, nhiều làng nghề từng tự hào với lịch sử hàng trăm năm nay lặng lẽ chìm vào quên lãng, như những dấu chân in trên cát bị sóng biển xóa nhòa, giờ chỉ còn vọng lại trong ký ức, nhắc nhở chúng ta về những di sản văn hóa của dân tộc đang dần biến mất.
Sự tàn phai của các làng nghề truyền thống như một bức tranh đa sắc, được vẽ nên bởi nhiều nét chấm phá khác nhau. Các chuyên gia xã hội học, khi phân tích bức tranh này, đã chỉ ra một số nguyên nhân cốt lõi. Đầu tiên, sự mất cân bằng giữa cung và cầu đang như một cơn bão, quét qua hoạt động làng nghề. Trong thời đại công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhu cầu tiêu dùng đã biến đổi không ngừng. Người tiêu dùng ngày càng bị hút hồn bởi những sản phẩm công nghiệp giá rẻ, tiện lợi. Hơn thế nữa, làn sóng sản phẩm giá rẻ từ nước ngoài đang tạo ra một áp lực cạnh tranh khốc liệt. Trong cuộc chiến không cân sức này, các làng nghề, với nguồn lực hạn chế đang phải vật lộn để tồn tại. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ, thiếu nhân lực kế thừa nghề truyền thống cũng là nguyên nhân khiến các làng nghề mai một dần.
Điển hình như làng tranh Đông Hồ - một làng nghề nổi tiếng với lịch sử hơn 400 năm. Những tác phẩm nổi tiếng như "Đám cưới chuột" hay "Đàn gà" đã trở thành biểu tượng không thể thiếu trong không khí Tết cổ truyền của nhiều gia đình trước kia. Tuy nhiên, mặc dù danh tiếng vẫn còn, thực trạng của làng nghề tranh Đông Hồ hiện nay lại đối lập hoàn toàn với sự nổi tiếng đó. Ngày nay, nơi đây trở nên đìu hiu, vắng bóng những nghệ nhân tài hoa từng làm nên tên tuổi của dòng tranh dân gian độc đáo này. Từ chỗ có 17 dòng họ làm tranh, hiện nay chỉ còn hai gia đình giữ nghề. Trước sức ép của cuộc mưu sinh, cư dân làng Đông Hồ đành phải chuyển hướng để bám trụ với cuộc sống. Nơi từng nổi danh với những bức tranh dân gian đặc sắc giờ đây lại phải nhờ cậy vào nghề làm vàng mã để tồn tại. Sự thay đổi này là hệ quả tất yếu khi nhu cầu thị trường về tranh Đông Hồ ngày một sụt giảm. Đứng trước khung cảnh làng nghề hôm nay, lòng người không khỏi se thắt, hoài niệm về một thời vàng son đã khuất - khi làng quê này còn rộn rã tiếng cười, tràn ngập sắc màu và đậm đà hơi thở văn hóa cổ truyền.
Hay như thành phố Hồ Chí Minh, dù là trung tâm phát triển hàng đầu của cả nước, cũng từng có 64 làng nghề truyền thống. Một số làng nghề có lịch sử hàng trăm năm, tồn tại qua nhiều thời kỳ và đã góp phần tạo sinh kế cho người dân địa phương. Tuy nhiên, hiện nay số lượng làng nghề ở đây đã suy giảm đáng kể. Ví dụ như nghề làm chổi bông cỏ và chổi lông gà ở đường Phạm Văn Chí (quận 6), nghề đan lát và dệt chiếu ở Bình An (quận 8), hay làng nem nổi tiếng ở Thủ Đức. Những làng nghề này từng phát triển mạnh mẽ nhưng giờ đã không còn giữ được vị thế như trước.
Đám cưới chuột, kết tinh tinh hoa của dòng tranh dân gian Đông Hồ. Ảnh: Nguồn tư liệu chụp lại
Để hồi sinh những làng nghề truyền thống
Có thể nói, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong xã hội hiện đại là một bài toán phức tạp, đòi hỏi sự cân bằng giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa giá trị văn hóa và hiệu quả kinh tế. Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng các nghệ nhân, các làng nghề mà còn là trách nhiệm của cả xã hội. Trong quá trình này, chúng ta cần nhận thức rằng bảo tồn không có nghĩa là "đóng băng" các làng nghề trong quá khứ. Thay vào đó, cần tạo điều kiện để các làng nghề "sống" và phát triển trong bối cảnh mới. Điều này đòi hỏi sự sáng tạo, đổi mới không ngừng, vừa giữ được cái "hồn" truyền thống, vừa thích ứng với nhu cầu của thị trường hiện đại. Một số mô hình thành công như làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) hay làng nghề mành trúc Tân Thông Hội (Củ Chi, TP Hồ Chí Minh) cho thấy, khi biết kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật truyền thống với công nghệ hiện đại, giữa sản xuất với du lịch, các làng nghề hoàn toàn có thể tìm được chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường.
Du lịch làng nghề không chỉ là xem cách làm sản phẩm hay mua sắm. Khách du lịch còn muốn tìm hiểu giá trị văn hóa và lịch sử lâu đời của làng nghề. Do đó, việc khôi phục lễ hội làng nghề sẽ giúp du khách hiểu rõ hơn về nguồn gốc và giá trị của nghề. Một số nước đã áp dụng mô hình "3 cùng" khi phát triển du lịch làng nghề, tương tự như homestay. Du khách được ăn, ở và làm việc cùng người dân địa phương. Cách này giúp kéo dài thời gian lưu trú của khách và tăng trải nghiệm thú vị. Khách có cơ hội tự tay làm ra sản phẩm dưới sự hướng dẫn của nghệ nhân, tạo nên kỷ niệm đáng nhớ. Mô hình này vừa giúp bảo tồn làng nghề, vừa tạo thu nhập cho người dân và mang lại trải nghiệm độc đáo cho du khách.
Do đó, cần tăng cường công tác quy hoạch, bảo tồn không gian văn hóa làng nghề gắn với phát triển du lịch. Điển hình cho sự thành công này co thể kể đến Thừa Thiên Huế, nơi hiện có 86 làng nghề và 57 nghề truyền thống đang hoạt động, với đội ngũ thợ thủ công và nghệ nhân lành nghề. Để quảng bá các làng nghề này, tỉnh Thừa Thiên Huế đã sáng tạo tổ chức Festival Nghề truyền thống, vừa thu hút du khách vừa giới thiệu các sản phẩm thủ công đến công chúng trong và ngoài nước. Kể từ lần đầu tổ chức vào năm 2005, Festival đã góp phần “hồi sinh” nhiều nghề và làng nghề truyền thống, đặc biệt là các nghề gắn với du lịch như làm nhà rường, may áo dài, thêu tranh, pháp lam...
Bên cạnh đó, việc đào tạo và truyền nghề cho thế hệ trẻ cũng cần được chú trọng. Cần có những chính sách hỗ trợ toàn diện, dài hạn và chương trình cụ thể để thu hút lao động trẻ về với làng nghề, không chỉ bằng lợi ích kinh tế mà còn bằng việc khơi dậy niềm tự hào về di sản văn hóa dân tộc. Các trường đại học, cao đẳng nghề cũng cần có những chương trình đào tạo kết hợp giữa kỹ năng truyền thống với kiến thức quản lý, marketing hiện đại để tạo ra thế hệ nghệ nhân mới, vừa giỏi nghề vừa có khả năng kinh doanh. Chính tình yêu nghề, sự say mê sáng tạo của các nghệ nhân đã giúp các làng nghề tồn tại và phát triển qua bao thăng trầm của lịch sử. Và cũng chính tình yêu ấy sẽ tiếp tục là động lực để các làng nghề vượt qua thách thức, tìm ra hướng đi mới trong thời đại ngày nay.
Các làng nghề cần chủ động đổi mới, sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh. Vừa giữ gìn những kỹ thuật và giá trị truyền thống, vừa cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm để đáp ứng thị hiếu thị trường. Một số làng nghề đã thành công trong việc tạo ra những sản phẩm mới dựa trên kỹ thuật truyền thống. Điển hình như nghệ nhân Phan Thị Thuận ở làng dệt Phùng Xá (Mỹ Đức, Hà Nội) đã nghiên cứu và dệt được lụa từ tơ sen - một sản phẩm độc đáo được thị trường ưa chuộng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các làng nghề truyền thống còn có thể trở thành một lợi thế cạnh tranh độc đáo của Việt Nam trên trường quốc tế. Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm bản sắc văn hóa Việt có thể trở thành "đặc sản" thu hút khách du lịch quốc tế, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Để làm được điều này, cần có chiến lược xây dựng thương hiệu và quảng bá hiệu quả cho các sản phẩm làng nghề trên thị trường quốc tế, chú trọng xây dựng thương hiệu và phát triển các sản phẩm OCOP (One Commune One Product - Mỗi xã một sản phẩm).
Trong những năm gần đây, nhiều địa phương trên cả nước đã nhận thức được tầm quan trọng và tập trung đầu tư để bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống.
Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống trong xã hội hiện đại là một hành trình dài, đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực và sáng tạo không ngừng. Đó không chỉ là nhiệm vụ của riêng các nghệ nhân, các làng nghề mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng, của toàn xã hội.
Bởi lẽ, trong mỗi sản phẩm làng nghề không chỉ chứa đựng giá trị vật chất mà còn ẩn chứa cả tâm hồn, bản sắc của dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy những giá trị ấy chính là cách chúng ta tôn vinh quá khứ, nuôi dưỡng hiện tại và xây dựng tương lai.
Theo Báo Lao Động
Viết bình luận